Luật nuôi con nuôi số 52/2010/QH 12 ban hành ngày 17/6/2020 đã quy định 07 nhóm hành hành vi bị cấm tại Điều 13 như sau:
1. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em
Hiện tượng nhận trẻ em làm con nuôi sau đó bắt buộc trẻ em lao động đã xảy ra trên thực tế. Người có hành vi lợi dụng việc cho, nhận hoặc giới thiệu trẻ em làm con nuôi để trục lợi; lợi dụng việc nhận con nuôi nhằm bóc lột sức lao động thì bị phạt tiền từ 05 – 10 triệu đồng (Điểm c khoản 3 Điều 62 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP). Người có hành lợi dụng việc nuôi con nuôi để xâm hại tình dục trẻ em thì tùy theo mức độ vi phạm mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Người có hành lợi dụng việc nuôi con nuôi để bắt cóc, mua bán trẻ em thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 153) Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
2. Giả mạo giấy tờ, hồ sơ để giải quyết việc nuôi con nuôi
Đã có một số trường hợp lợi dụng chức vụ hoặc quyền hạn để phát hành những loại giấy tờ, hồ sơ làm sai lệch nhân thân, nguồn gốc của trẻ em được cho làm con nuôi (như làm giả Giấy khai sinh, Giấy xác nhận khuyết tật, Giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi của người có quyền đồng ý, Giấy chứng tử cha mẹ đẻ của trẻ...). Hành vi tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để làm thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng (Điểm d khoản 1 Điều 62 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP).
3. Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi
Mục đích của việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững (Điều 2), pháp luật về hôn nhân gia đình, bộ luật dân sự, pháp luật về trẻ em đều thừa nhận quyền và nghĩa vụ của con nuôi cũng như con đẻ là như nhau. Do đó, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.
4. Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số
Pháp lệnh dân số quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng là quyết định sinh một hoặc hai con (Khoản 2 Điều 10), một số cặp vợ chồng đã sinh 02 con lại muốn sinh thêm con nữa, đã thống nhất thuận tình ly hôn, trong thời gian ly hôn thì người vợ mang thai và sinh con, sau đó cặp vợ chồng lại đăng ký kết hôn lại và người chồng nhận con riêng của vợ (thực chất là con đẻ của mình) làm con nuôi. Để ngăn chặn tình trạng này, Luật nuôi con nuôi nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số. Người có hành vi vi phạm quy định này sẽ bị phạt tiền từ 03 – 05 triệu đồng theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 62 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.
5. Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước
Bảo vệ và hỗ trợ thương binh, người có công với cách mạng và đồng bào thuộc dân tộc ít người là những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Song trong quá trình áp dụng pháp luật, đã có những biểu hiện lạm dụng chính sách đó bằng cách cho trẻ em làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người già yếu, cô đơn hoặc làm con nuôi của người thuộc dân tộc ít người để hưởng chế độ và chính sách như: để được cộng điểm thi vào các trường đại học, hưởng chế độ ưu đãi về bảo hiểm xã hội… Đây là một hiện tượng đã phát sinh tại một số địa phương, nhiều cơ quan, ban ngành đã phản ánh, vì thế cần nghiêm cấm triệt để. Người có hành vi lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước sẽ bị phạt tiền từ 03 – 05 triệu đồng theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 62 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.
6. Việc ông bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi
Luật nuôi con nuôi quy định cấm ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi. Trên thực tế có trường hợp ông bà nhận cháu làm con nuôi khi cha mẹ đẻ của cháu mất, hoặc anh, chị nhận em làm con nuôi khi cha mẹ không còn. Điều này đã làm đảo lộn ngôi thứ/thứ bậc trong các quan hệ gia đình (ông bà trở thành “bố mẹ”, cháu lại trở thành “con”; hoặc anh/chị lại trở thành “cha/ mẹ” và em thì trở thành con – đó là điều trái pháp luật, trái đạo lý - ảnh hưởng đến cả quan hệ thừa kế, quan hệ nội tộc, họ hàng, do đó cần phải bị nghiêm cấm). Vì vậy, trường hợp cha mẹ bị chết, thì ông bà (nội, ngoại) có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cháu hoặc anh, chị có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc em - đó là trách nhiệm nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, không cần phải xác lập quan hệ nuôi con nuôi thì mới ràng buộc được trách nhiệm của các bên.
7. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc
Quy định này là hết sức cần thiết, nhằm ngăn chặn các hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm các chính sách pháp luật của Nhà nước như chính sách về dân số, quốc tịch, chính sách về an sinh xã hội và các chính sách khác./.
Phòng Tư pháp huyện